Home Sách Trực Tuyến Vì Sao Chúng Ta Tin ? Phần 2: Có Đức Chúa Trời Không?

Vì Sao Chúng Ta Tin ? Phần 2: Có Đức Chúa Trời Không?

0
Vì Sao Chúng Ta Tin ? Phần 2: Có Đức Chúa Trời Không?

Trong đời sống con người, không có một câu hỏi nào sâu sắc đòi hỏi một câu trả lời hơn là câu hỏi: Có Đức Chúa Trời không? Đây là một câu hỏi thách thức mỗi con người biết suy nghĩ, và câu trả lời liên hệ với mỗi chúng ta cho dù chúng ta đang ở đâu trong cuộc đời này.

Khi chúng tôi sống ở Dallas, một người quảng cáo cho quyển Những Tác Phẩm Lớn Của Thế Giới Phương Tây (Great Books of the Western World) thuyết phục chúng tôi mua trọn bộ 54 chương. Trong số 102 tư tưởng vĩ đại nhất, tôi bắt đầu với số 29, Đức Chúa Trời. Biên tập viên, Mortimer Adler, bắt đầu bằng lời giải thích: “Về phương diện tham khảo trọn vẹn, cũng như trong sự đa dạng, đây là chương sách dày nhất (của bộ giới thiệu đề tài tổng hợp). Lý do thật rõ ràng. Hậu quả của tư tưởng và hành động theo sau việc chấp nhận hay chối bỏ Đức Chúa Trời vốn được dành nhiều chỗ hơn là để giải đáp bất luận một câu hỏi căn bản nào khác.”

Adler tiếp tục liệt kê ra những ứng dụng thực tiễn: toàn bộ phương hướng của cuộc sống con người đều chịu ảnh hưởng của việc con người có tự xem mình như những hữu thể ưu việt trong vũ trụ hay nhận biết rằng có một hữu thể siêu việt hơn mà họ nhận thức đó là đối tượng của sự kính sợ hay yêu mến, một sức mạnh đang bị thách đố hay một Cứu Chúa phải thuận phục. Trong số những người chấp nhận có thần thánh, điều tối quan trọng là vị thần đó được hình dung như một ý niệm về Đức Chúa Trời đối tượng của suy lý triết học- hay là một Đức Chúa Trời hằng sống mà con người thờ phượng trong mọi hành động sùng kính bao gồm cả những nghi lễ tôn giáo.

Có Đc Chúa Tri trong ng nghim chăng?

Rõ ràng là chúng ta không thể xét nghiệm Đức Chúa Trời trong một ống nghiệm hay chứng minh về Ngài bằng phương pháp khoa học (scientific methodology) thông thường. Hơn nữa, chúng ta có thể nhấn mạnh tương tự rằng chúng ta cũng không thể chứng minh về Napoleon bằng những phương pháp khoa học được. Lý do nằm ở chính bản chất của lịch sử và trong sự giới hạn của những phương pháp khoa học. Muốn cho một việc gì có thể được chứng nghiệm bằng phương pháp khoa học, việc ấy phải được lặp đi lặp lại. Một nhà khoa học không tuyên bố cho cả thế giới biết về một khám phá mới chỉ dựa trên một thí nghiệm duy nhất mà thôi. Lịch sử trong chính bản chất của nó là không thể được lặp lại. Không ai có thể quay lại thời ban đầu của vũ trụ hay đem Napoleon sống lại hay lặp lại cuộc ám sát cố tổng thống Lincoln hay sự đóng đinh của Chúa Giê-xu. Việc các biến cố không thể được chứng minh bằng sự lặp lại không bác bỏ tính có thực của những biến cố đó.

Có rất nhiều sự thật nằm bên ngoài phạm vi của những phương pháp khoa học. Phương pháp khoa học chỉ hữu dụng với những vật thể có thể đo lường được mà thôi. Chưa có ai từng thấy một mét tình yêu hay hai ký lô công lý, nhưng nếu phủ nhận thực tại của chúng, thì người ấy phải là một tên điên. Cứ khăng khăng đòi phải chứng minh Đức Chúa Trời bằng phương pháp khoa học thì chẳng khác gì đòi dùng máy điện thoại để đo chất phóng xạ.

S vĩnh hng trong tm lòng ca chúng ta

Có bằng chứng hiển nhiên nào về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời không? Những nghiên cứu của những nhà nhân chủng học đã chỉ ra rằng có một niềm tin phổ quát nơi Đức Chúa Trời trong hầu hết những dân tộc sơ khai nhất ngày nay. Trong những chuyện huyền thoại và những chuyện lịch sử xa xưa của mọi dân tộc khắp trên thế giới đều có một ý niệm nguyên thủy về một Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Dường như cả trong ý thức của những dân tộc ngày nay theo chủ nghĩa đa thần đều đã ý thức về sự hiện hữu một Đức Chúa Trời tối cao nguyên thủy. Dù có những sự thêm thắt khác vào một vị chúa không biết này, nhưng ý niệm về một Đức Chúa Trời vẫn còn đó.

Những nghiên cứu trong năm mươi năm trở lại đây đã thách thức quan niệm tiến hóa về sự phát triển của tôn giáo. Thuyết độc thần – quan niệm rằng có một Đức Chúa Trời – trở nên đỉnh cao của sự phát triển tiệm tiến bắt đầu bằng những quan niệm về thuyết đa thần. Càng ngày chúng ta càng thấy rõ rằng tín ngưỡng truyền thống ở khắp mọi nơi là niềm tin vào một Thượng Đế tối cao. 2 Tác giả của sách Truyền Đạo nói về Đức Chúa Trời là Đấng “khiến cho sự đời đời ở nơi lòng loài người” (TrGv 3:11).

Blaise Pascal, nhà toán học lỗi lạc của thế kỷ 17, viết về “khoảng trống có hình dạng của Đức Chúa Trời” (the God-shaped vacuum) trong mỗi con người. Augustine kết luận rằng: “Lòng của chúng ta không bao giờ yên nghỉ cho tới khi tìm được yên nghỉ trong Ngài.”

Có nhiều bằng cớ chứng tỏ rằng đa số con người trong mọi thời đại và ở mọi nơi luôn tin vào một loại thần hay các thần nào đó. Mặc dù việc này theo nghĩa nào đi nữa không phải là một bằng chứng mang tính kết luận, nhưng đây là một điểm liên hệ mở đầu đáng ghi nhớ khi chúng ta cố gắng giải đáp câu hỏi lớn.

Lut Nhân Qu

Để bắt đầu, chúng ta hãy xem xét về luật nhân quả. Không có nguyên nhân thì không bao giờ có hậu quả. Có một giấy nhắn trên cửa của bạn. Phải có ai đó để nó ở đó. Bức họa ở trên tường, ai đó đã vẽ nó. Không có cái gì bắt nguồn từ cái không có! Chúng ta là những con người và bản thân cả vũ trụ này là kết quả cần có của một căn nguyên. Chúng ta tiến đến một nguyên nhân không hề có căn nguyên, đó là Đức Chúa Trời.

Betrand Russell, người theo chủ nghĩa hoài nghi, đã nói một câu đáng kinh ngạc trong quyển Tại Sao Tôi Không Phải Là Một Cơ Đốc Nhân (Why I am Not Christian). Ông nói rằng khi ông còn nhỏ “Đức Chúa Trời” là câu trả lời cho rất nhiều câu hỏi mà ông nêu lên để chất vấn về sự hiện hữu. Thất vọng quá, ông hỏi rằng: “Vậy thì ai tạo ra Đức Chúa Trời?” Khi không có câu trả lời nào thỏa mãn, ông nói rằng: “Toàn bộ đức tin của tôi bị sụp đổ.” Tiếc thay câu hỏi của ông là một kinh nghiệm rất thông thường nhưng nó lại không đáp ứng được câu hỏi đang bùng cháy.

Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Đầu Tiên, theo định nghĩa là đời đời. Không ai tạo ra Ngài hết. Ngài tự hiện hữu. Nếu Đức Chúa Trời cũng là một tạo vật được sáng tạo, Ngài không thể là căn nguyên được, Ngài cũng chỉ là kết quả mà thôi. Ngài sẽ không là và cũng không thể là Đức Chúa Trời được.

  1. C. Sproul, nhà văn và là một nhà diễn thuyết, giải thích rằng:

Là một Đấng đời đời, Đức Chúa Trời không phải là kết quả và vì Ngài không phải là kết quả, Ngài không đòi hỏi căn nguyên. Ngài không có căn nguyên. Điều quan trọng phải lưu ý phân biệt giữa một hữu thể không căn nguyên, tự hiện hữu đời đời với một kết quả tự tạo ra nó trong quá trình tự sáng tạo. 3

Thi gian vô đnh cng vi s ngu nhiên chăng?

Không ai lại có thể nghĩ rằng một máy vi tính có thể được hình thành mà không có một người vô cùng thông minh làm ra. Không thể nào một con khỉ được nuôi ở nhà in lại có thể sắp chữ rồi in bài diễn văn tại Gettysburg của Lincoln. Nếu chúng ta gặp một tập diễn văn như thế chắc chúng ta có thể kết luận rằng phải có một đầu óc vô cùng thông minh mới có thể in nó ra. Làm thế nào để chúng ta tin rằng cả vũ trụ này với tất cả sự phức tạp vô tận của nó có thể xảy ra bằng sự ngẫu nhiên?

Chẳng hạn, mọi người đều nhìn nhận rằng thân thể người ta là cơ thể vô cùng tuyệt diệu và phức tạp, một hệ thống tổ chức, một bản thiết kế và một hiệu quả mà ai cũng phải lấy làm ngạc nhiên. Cho nên chúng ta rất xúc động khi nghe lời tuyên bố sau đây của Albert Einstein: “Tôn giáo của tôi bao gồm việc hạ mình chiêm ngưỡng Đấng vốn là Thần Linh tối cao vô hạn đã tự bày tỏ chính Ngài trong những chi tiết nhỏ nhặt để chúng ta có thể hiểu được bằng tâm trí mong manh yếu ớt của mình. Niềm tin sâu xa do xúc động cho tôi biết về sự hiện diện của một năng lực tối thượng hữu lý, bộc lộ trong một vũ trụ không thể lấy lý trí lãnh hội được, đã tạo thành ý niệm của tôi về Đức Chúa Trời.” 4 Tuy vậy theo điều chúng ta biết, ông không bao giờ đạt đến việc tin nhận Đức Chúa Trời có thân vị.

Có hai sự lựa chọn mà Cơ Đốc nhân và những người chưa tin giống nhau là: Vũ trụ và toàn bộ con người khởi nguồn bởi sự tình cờ hay bởi mục đích và theo sự thiết kế?

Những nhà khoa học từ lâu đã dựa vào thời gian vô hạn cộng với sự ngẫu nhiên để giải thích về nguồn cội của cuộc sống. Từ quan niệm này họ tránh được những kết luận không thể chấp nhận được về một căn nguyên mang tính thần thánh. Tiến trình nầy đòi hỏi một sự giả định trước và những điều kiện nào đó, hoặc giả định rằng không có sự sống nào có thể sinh ra nó. Vì lý do nầy, muốn có sự việc xảy ra chắc chắn phải có:

Một món súp cơ bản được chuẩn bị một cách lý tưởng

Bình điện phải được xạc thường xuyên

Một khoảng thời gian vô hạn – hàng hàng niên kỷ

Phải có một công thức cuộc sống như thế thì có thể mới tiến hóa được. Tuy nhiên, những khó khăn mà lý thuyết này đưa ra quá lớn đến nỗi ngày nay những nhà khoa học đó đang thẳng thừng chỉ ra những nhược điểm của nó.

Phi hành gia lỗi lạc Sir Fred Hoyle đã đề xuất một bảng tương đồng để mô tả những khó khăn này. Ông hỏi: “Phải mất bao lâu một người bị bịt mắt mới giải được trò chơi quay khối rubic?” Nếu một người mỗi phút xoay chuyển một lần mà không ngừng nghỉ, Hoyle ước chừng rằng sẽ mất khoảng 3.5 nghìn tỉ năm! Do đó, ông kết luận rằng, khi xét tuổi thọ của một đời người thì một người bị bịt mắt không bao giờ có thể giải nổi trò chơi quay khối rubic.

Holye tiếp tục giải thích rằng khó khăn cũng xảy ra tương tự cho sự hình thành ngẫu nhiên của chỉ một cái trong số hàng chuỗi amino acid của một tế bào với khoảng 200.000 amino acid như vậy. Bây giờ nếu bạn tính toán thời gian cần thiết để tất cả 100.000 amino acid của một tế bào trong cơ thể con người liên kết lại với nhau bằng sự ngẫu nhiên, sẽ mất khoảng 293,5 lần số tuổi ước chừng của trái đất (lấy tiêu chuẩn 4,6 tỉ năm). Sự kỳ quặc cho phép việc này xảy ra còn lớn hơn việc một người bị bịt mắt giải được trò chơi Rubic.

Trong một bảng so sánh tương đồng khác Hoyle bênh vực sự tranh luận của mình. Ông ví nó với “kho chứa sắt, đồng vụn” (junkyard mentality) và hỏi: “Có sự ngẫu nhiên nào một cơn lốc xoáy thổi qua một kho đồng, sắt vụn, chứa các phần của chiếc 747 , ngẫu nhiên lắp chúng lại thành một chiếc máy bay sẵn sàng cất cánh?” Hoyle trả lời rằng: “Khả năng cho việc đó xảy ra quá nhỏ không đáng kể ngay cả khi cơn lốc xoáy đó có khả năng thổi qua đủ các kho đồng nát để lấp đầy cả vũ trụ này!”

Trong quyển sách rất ấn tượng của ông Vũ Trụ Tài Tình (The Intelligient Universe), Hoyle kết luận rằng: “Khi các nhà hóa sinh khám phá ra ngày càng nhiều sự phức tạp đáng kinh sợ của cuộc sống, họ nhìn nhận rõ ràng là sự sắp xếp tình cờ bởi ngẫu nhiên quá nhỏ đến nỗi có thể được loại bỏ hoàn toàn. Cuộc sống này không thể được nảy sinh từ sự ngẫu nhiên.” 5

Trt t và đ án ca vũ tr

Khi chúng ta nói đến kiểu mẫu, chống lại với ý kiến về sự ngẫu nhiên, chúng ta đang liên hệ với những phần có thể quan sát được của thế giới chúng ta, từ những cái nhỏ nhất của nơtron và prôton đến sự rộng lớn bao la của dải thiên hà. Ai hay cái gì đưa ra sự xác định hay những thông tin nguyên thủy để tất cả chúng có thể liên kết lại với nhau? Thông tin này là cái chúng ta muốn nói về đồ án. Tương tự khi so sánh với việc tìm kiếm một kế hoạch toàn hảo lấy thủy tinh, kim loại và phốt-pho để tạo nên những vật chất như cái ti -vi đầy chức năng. Không bao giờ có ai lại nghĩ tới việc đề xuất một sự “lựa chọn tự nhiên” như vậy hay một quá trình tự lắp ráp tạo ra một sản phẩm như vậy được. Thật sự thì ngay đến thuật ngữ “chọn lựa tự nhiên” cũng không phải là một lời giải thích, nó chỉ là một cái tên thôi. Nó không thể nào nói cho chúng ta biết làm thế nào những phần này đủ sự hiểu biết để tự hợp lại với nhau dẫn đến kết quả cuối cùng thật hữu ích. Phải có một người nào đó có đủ những thông tin để lắp ráp những phần đó vào ti-vi.

Cũng vậy, hệ thống vật chất của vũ trụ chúng ta cũng lớn tiếng tuyên bố rằng có một người nào đó đã lập trình những lời hướng dẫn vào từng phần riêng lẻ để sáng tạo nên thế giới mà chúng ta thấy. Tiến sĩ Robert Gangue gợi ý rằng chúng ta có thể nói rằng nó được thiết kế một cách có chủ đích. Nếu ai đó nói rằng cấu trúc cuộc sống có thể truy ra từ những tính chất vật chất của những phần tử nhân nhỏ nhất, thì có những câu hỏi cần được giải đáp:

Những phần tử này nảy sinh từ đâu?

Tại sao mà các hạt electron lại có điện tích và khối lượng như vậy?

Ai hay cái gì đã tạo ra giá trị của hằng số hấp dẫn?

Tại sao ánh sáng lại di chuyển với tốc độ chính xác của nó như vậy?

Từ vô số những ví dụ chúng ta có thể chứng tỏ về một sự thiết kế có chủ định trước. Xem xét những tính chất đáng chú ý của nước, Tiến Sĩ I. J. Henderson liệt kê một số những đặc tính mà chúng ta có thể ứng dụng vào sự chủ định trước.

Nước có nhiệt độ riêng cao. Điều đó có nghĩa là những phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể con người được giữ khá ổn định. Nếu nước có nhiệt độ riêng thấp, tất cả chúng ta sẽ bị “sôi lên” chỉ với một cử động nhỏ. Khi chúng ta nung một dung dịch lên thêm 10 độ bách phân, chúng ta đã làm tăng tốc độ của phản ứng lên gấp đôi. Nếu nước không có đặc tính đó thì khó mà có sự sống được.

Đại dương là máy điều nhiệt của thế giới. Nước phải mất khá nhiều nhiệt để có thể chuyển từ trạng thái lỏng sang nước đá, và khi nước biến thành hơi, nó đòi hỏi một lượng nhiệt thu vào cũng tương đương như vậy. Thế nên, đại dương là một “trái độn) (cushion) chống lại sức nóng của mặt trời và những luồng gió lạnh mùa đông. Nếu nhiệt độ của trái đất không được biển điều chỉnh và duy trì ở một phạm vi nhất định thì sự sống hoặc là bị nấu chín hoặc là bị đông lạnh đến chết.

Nước là chất dung môi tổng quát. Nó hòa tan các chất acid, các chất diêm cơ và chất muối. Về phương diện hóa học, nó tương đối thụ động, cung ứng một môi trường trung gian cho các phản ứng mà không dự phần vào. Trong sự tuần hoàn huyết, nó là một dung dịch chứa ít nhất là sáu mươi bốn chất khác nhau… Tất cả các dung môi khác chỉ là một thứ cáu cặn không hơn kém. Nếu như nước không có những đặc tính độc đáo ấy, sự sống mà chúng ta biết không thể nào hiện hữu được.

Bản thân trái đất cũng là một bằng chứng về một bảng thiết kế rất chi tiết. “Nếu trái đất nhỏ hơn, thì sẽ không có tầng khí quyển (như trên thủy tinh và mặt trăng); nhưng nếu nó lớn hơn, bầu khí quyển sẽ chứa đầy khí hidro ở dạng tự do (như trên thổ tinh và mộc tinh). Khoảng cách từ mặt đất đến mặt trời cũng rất chính xác – một thay đổi nhỏ xíu cũng làm cho trái đất quá nóng hay quá lạnh. Mặt trăng của chúng ta, có lẽ là hành tinh duy nhất chịu trách nhiệm về sự phân chia các châu lục và đại dương, là hành tinh rất đặc biệt trong thái dương hệ và dường như được ra đời theo một cách khác với các mặt trăng khác tương đối nhỏ hơn. Độ nghiêng của trục điạ cầu bảo đảm cho sự xoay chuyển bốn mùa.”

Những ví dụ đáng kinh ngạc tương tự như vậy có thể được nhìn thấy trong các sinh vật sống, bao gồm cả con người của chúng ta. Có khoảng gần mười một triệu sinh vật sống trên trái đất, và mỗi sinh vật là một phép lạ sống. Chúng là kết quả của một sự phức tạp có tổ chức đầy khác thường ở cấp độ phân tử mà chúng ta chỉ có thể chiêm ngưỡng trong kinh ngạc. Hãy xem xét đôi mắt của con người. Nhà thần học người Anh William Paley chỉ ra sự “phối hợp hiệu quả và hài hòa giữa thủy tinh thể, võng mạc và não bộ; cho phép con người nhìn thấy được; như là một bằng chứng mang tính kết luận cho sự thiết kế của một Đấng Sáng Tạo đầy khôn ngoan. Do đó, bản thiết kế đầy chức năng của các tế bào và những nét đặc trưng của nó được xem như những bằng chứng về sự hiện hữu của một Đấng Thiết Kế.” 9 Chính Darwin trong chương sách mang tực đề “Những điều vật lộn với lý thuyết” trong quyển Nguồn Gốc Của Các Loài (The Origins of Species) có nói: “Giả sử con mắt, với rất nhiều bộ phận làm việc chung với nhau… được cấu thành bởi một sự lựa chọn tự nhiên, tôi phải thú nhận rằng, nó có vẻ như là một điều vô lý vô cùng.”

Richard Lewontin, một sinh viên của Đại Học Harvard theo thuyết tiến hóa, nói rằng những tế bào được “thiết kế rất cẩn thận và khéo léo” và gọi sự toàn hảo của các tế bào là “bằng chứng chủ yếu nhất về một Đấng Thiết Kế Tối Cao.”

Vũ tr có s khi đu

Vũ trụ được thiết kế cũng hàm ý rằng vũ trụ đã có một khởi đầu – có một thời điểm mà thế giới được hình thành. Kinh Thánh mô tả theo cách này: “Thuở xưa Chúa lập nền trái đất, các từng trời là công việc của tay Chúa” (Thi Tv 102:25).

Các nhà khoa học cố tránh quan niệm cho rằng thời gian có khởi đầu hay kết thúc vì như vậy là nó có sự can thiệp của thần thánh. Trải qua nhiều năm có vô số học thuyết thay phiên nhau nảy nở.

Quan điểm thứ nhất cho rằng vũ trụ là một “quá trình sáng tạo liên tục/tình trạng vững bền” (continuos creation/steady-state) được đề xuất bởi Hermenn Bondi, Fred Hoyle và Tom Gold. Quan điểm này được Tiến Sĩ James Brooks mô tả: “Quan điểm này cho rằng khi các dải thiên hà di chuyển xa ra khỏi nhau, thì có những dải thiên hà mới được thành lập ở giữa những khoảng trống, theo kiểu được “liên tục sáng tạo”. Vũ trụ lúc đó sẽ gần như không thay đổi trong mọi thời điểm và mật độ của nó cũng sẽ khá đều đặn. Kiểu mẫu được đưa ra này cho thấy rằng vật chất (trong dạng của hidro) luôn luôn được tạo ra từ cái không có gì, và di chuyển xung quanh để trung hòa sự pha loãng của vật chất xuất hiện khi các dải ngân hà di chuyển cách xa nhau ra.” 11 Từ điều này và những yếu tố khác ông kết luận là vũ trụ không có sự bắt đầu và nó là vô tận.

Tiến sĩ Robert Jastrow, người sáng lập Viện Nghiên Cứu Không Gian của cơ quan NASA, giải thích điều ngược lại mới là đúng. Ngay giây phút một ngôi sao được sinh ra, nó bắt đầu đốt cháy một phần hidro trong vũ trụ, và có một sự pha loãng liên tục của hidro và những kim loại nạng hơn trong vũ trụ ngày hôm nay. Ông kết luận rằng học thuyết về một vũ trụ không có bắt đầu và kết thúc không thể đứng vững được.

Quan điểm thứ hai về sự bắt đầu của vũ trụ được các nhà khoa học đưa ra được gọi là “kiểu mẫu giao động” (oscillating model). Quan điểm này cho rằng vũ trụ giống như một cái lò xo, giãn ra và co lại, lặp lại chu trình một cách vô hạn định. Cơ sở của học thuyết này cho rằng vũ trụ đã “đóng”, nghĩa là, không có một năng lượng nào được đặt thêm vào. Sự giãn nở của vật chất sẽ đạt đến một điểm nhất định nào đó và trọng lực kéo mọi vật lại với nhau trước khi nó giãn nở nữa. Tuy nhiên, tất cả các bằng chứng đều bác bỏ điểm này; vũ trụ rõ ràng là mất tỷ trọng của nó mà không có một dấu hiệu nào nên sự giãn nở liên tục chưa bao giờ hay sẽ không bao giờ đảo ngược lại, cho nên cũng không đóng lại.

Tiến Sĩ William L. Craig đưa ra kết luận của ông về hai kiểu mẫu trên rằng: “Cả hai trạng thái vững bền và kiểu mẫu dao động của vũ trụ đều không trùng khớp với các sự kiện mà ngành vũ trụ học quan sát. Do đó chúng ta có thể kết luận một lần nữa rằng vũ trụ đã bắt đầu hiện hữu.”

Quan điểm thứ ba về sự khởi nguyên của vũ trụ được mọi người biết đến như là thuyết “Big Bang.” Tiến Sĩ Edwin Hubble vẽ biểu đồ tốc độ của dải thiên hà và khẳng định rằng tất cả các dải thiên hà đều di chuyển ra xa chúng ta và cách xa nhau ra với một tốc độ khủng khiếp. Định luật mang tên ông nói rằng: Các dải thiên hà càng cách xa nhau thì càng di chuyển nhanh hơn.

Sự ứng dụng gây sửng sốt của điều này là cùng một lúc tất cả các vật chất được gói trong một khối dày đặc ở nhiệt độ hàng tỉ độ. Những nhà khoa học quan sát hiện tượng này phát triển lý thuyết về vũ trụ nguyên thuỷ có lẽ giống như một trái banh lửa được nung lửa trắng ngay từ giây phút đầu tiên sau khi vụ nổ Big Bang xảy ra.

Lý thuyết nầy đã được xác nhận vào năm 1965 khi hai nhà vật lý học tìm ra một khám phá bất ngờ rằng toàn bộ trái đất đã tắm trong lớp sáng yếu ớt của phóng xa. Những bước sóng này theo y khuôn những mẫu của bước sóng trong vụ nổ lớn. Từ đó, những nhà khoa học một lần nữa xác nhận rằng không có một sự giải thích rõ ràng nào khác hơn là giải thích những bước sóng phóng xạ này là hậu quả của vụ nổ Big Bang.

Trước v n Big Bang

Tiến sĩ Robert Jastrow, là người theo thuyết bất khả tri về vấn đề tôn giáo, nhận xét về lý thuyết của vụ nổ Big Bang:

Bây giờ chúng ta thấy rằng những bằng chứng thiên văn học đều dẫn tới quan niệm của Kinh Thánh về nguồn gốc của thế giới. Chi tiết khác nhau, nhưng những yếu tố căn bản trong thiên văn học và Kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký thì giống nhau. Chuỗi sự kiện dẫn đến một sự khởi đầu thình lình và đột ngột vào một thời điểm nhất định trong thời gian, trong một chớp ánh sáng và năng lượng.

Một cách cổ điển, những nhà khoa học đã phủ nhận ý tưởng về một hiện tượng tự nhiên không thể giải thích được, thậm chí với thời gian và tiền bạc không giới hạn của họ. Có một loại tôn giáo trong khoa học, ấy là mỗi sự kiện có thể được giải thích theo cách hợp lý như là kết quả của một sự kiện trước đó; mỗi hậu quả phải có nguyên nhân của nó. Bây giờ khoa học chứng minh rằng vũ trụ đã nổ để tồn tại trong một thời điểm nhất định. Khi hỏi: “Nguyên nhân nào dẫn đến kết quả này? Ai hay cái gì đã đặt những vật chất và năng lượng vào trong vũ trụ?” thì khoa học không thể trả lời những câu hỏi này được.

Jastrow kết luận bằng câu nói bất hủ này:

Đối với nhà khoa học đã sống bằng niềm tin dựa vào sức mạnh của lý lẽ, thì câu chuyện kết thúc như một cơn ác mộng. Ông ta đã leo lên những ngọn núi của sự tự mãn; ông đang chuẩn bị chinh phục đỉnh cao nhất; ông bò qua tảng đá cuối cùng và thấy một nhóm các nhà thần học đã ngồi đó hàng bao thế kỷ đang chào đón mình. 14

Đối với nhiều người, đây là một sự phát triển đầy lạ lùng và đáng kinh ngạc ngoại trừ những nhà thần học. Họ đã luôn luôn chấp nhận những lời được chép trong Kinh Thánh. Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất.

Đa-vít, một trong những nhà thần học, nói cách khôn ngoan: “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giãi tỏ công việc tay Ngài làm” (19:1). Và sứ đồ Phao-lô viết: “Vì điều chi có thể biết được về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ đều đó cho họ rồi, bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (RoRm 1:19-20). Điều mà Augustine thêm vào là: “Ai có thể hiểu được sự huyền nhiệm này hay giải thích nó cho người khác được?”

Cuc tranh lun v đo đc

Nhưng vẫn còn một bằng chứng khác về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời mà C. S. Lewis gọi là “đúng và sai được xem như là bằng chứng về ý nghĩa của vũ trụ.” Có một ảnh hưởng hay mạng lịnh bên trong mỗi người chúng ta buộc chúng ta phải cư xử theo cách nhất định nào đó. Lewis giải thích rằng tự nhiên chúng ta thấy con người thường phản ứng về nhận thức đúng và sai. Người nọ cãi với người kia: “Đây là chỗ của tôi. Tôi chiếm được nó trước! Giả sử tôi hành động tương tự như bạn! Bạn có thích không? Thôi nào, bạn đã hứa rồi mà.” Những người có học lẫn không học vẫn nói với nhau như vậy hằng ngày, con nít và cả người lớn nữa.

Trong những cuộc tranh luận như vậy, có những yêu cầu đối với một số tiêu chuẩn cư xử mà người kia phải chấp nhận. Người có lý do chính đáng để làm việc đó; thì có thể làm việc đó. Người ta kêu gọi sự đáp ứng đối với một số luật pháp, luật lệ, công bằng hay đạo đức vốn đã có sẵn trong họ. Hiếm khi nào một người khác nói: “Ai thèm quan tâm đến tiêu chuẩn của bạn?” Tiêu chuẩn đó đã có giữa họ rồi. Họ không thắc mắc về nó nữa. Lewis nói: “Cãi lộn có nghĩa là cố gắng chỉ cho người kia thấy là họ đang sai.”

Luật pháp này liên hệ với cái phải xảy ra. Dù sao, chúng ta biết nó vẫn ở trong chúng ta. Nó không chỉ là một bộ quy tắc văn hóa hay tiêu chuẩn văn hóa. Nó còn là một sự nhất trí đáng ngạc nhiên từ nền văn minh này đến nền văn minh khác về cái gọi là khuôn phép đạo đức. Và tất cả chúng ta đều đồng ý rằng có một vài tiêu chuẩn đạo đức tốt hơn những tiêu chuẩn đạo đức khác. “Nếu không thì không ý tưởng đạo đức nào thật hơn hay đúng hơn cái khác, sẽ chẳng có nghĩa lý gì trong việc ưa chuộng đạo đức văn minh hơn là đạo đức sơ khai, hay đạo đức Cơ Đốc giáo hơn là đạo đức Đức quốc xã.” 15

Lewis nói rằng luật đạo đức không thể chỉ là một qui ước mang tính xã hội. Ông nói với chúng ta rằng nó phải hơn một bảng toán học. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ nói rằng bảng cửu chương là một qui ước xã hội để giúp chúng ta và chúng ta có thể làm một bảng khác nếu chúng ta muốn. 2 cộng 2 luôn luôn là 4 bất luận nền văn hóa của nó là gì đi nữa. Vì vậy, nếu có một bộ luật đạo đức, thì phải có một người đạo đức ban đạo luật đó. Kinh Thánh mô tả con người được “tạo dựng theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời,” phân biệt con người với tất cả các loài thọ tạo khác. Ảnh tượng đạo đức này có trong chúng ta từ khi mới sanh ra bất kể nguồn gốc hay quốc tịch của chúng ta là gì. Một người chưa bao giờ nghe con vật cưng (chó hay mèo) hỏi: “Điều này đúng hay sai?” hay là “Điều này tốt hay xấu?” Những ý tưởng như vậy chỉ có đặc biệt ở con người mà thôi, và đối với con người, ảnh tượng đạo đức không phải là một phần mềm tùy ý chọn lựa. Vâng, có một người đứng đằng sau toàn bộ vũ trụ. Người đó chính là Đức Chúa Trời, Đấng có trí óc, tình cảm, sự nhận thức, ý chí và một nhân cách trọn vẹn. Những điều này được ban cho chúng ta khi Ngài tạo dựng chúng ta, và điều đó bao gồm luôn luật pháp đạo đức. Ngài quan tâm đến một sản phẩm hoàn chỉnh – trong sự công chính, không ích kỷ, can đảm, đức tin tốt, lương thiện và trung thành.

Luật pháp của Đức Chúa Trời không phải là cái gì đó xa lạ, phủ lên bên ngoài chúng ta nhưng đan dệt vào bản chất chúng ta từ ngày sáng tạo. Có cái gì đó sâu thẳm bên trong chúng ta vang dội điều có hay không, đúng hay sai của Đức Chúa Trời. (Sứ điệp trong RoRm 2:15).

Phi chăng Thượng Đế không mun con người hnh phúc?

Có một điều quan trọng cần quan sát ở đây mặc dù có nhiều dấu hiệu của Đức Chúa Trời trong thiên nhiên, chúng ta cũng chẳng bao giờ có thể biết được một cách chắc chắn từ thiên nhiên rằng Ngài hiện hữu hay Ngài trông như thế nào. Câu hỏi được đặt ra từ hàng thế kỷ trước: “Há có thể hiểu biết được sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời, và thấu rõ Đấng Toàn Năng sao?”( Giop G 11:7). Câu trả lời là không! Nếu Đức Chúa Trời không bày tỏ chính Ngài, chúng ta cũng quờ quạng trong sự mập mờ và phỏng đoán mà thôi.

Rõ ràng ngày hôm nay trong vòng những người tin vào Đức Chúa Trời có rất nhiều ý tưởng xa lạ về Đức Chúa Trời.

Chẳng hạn như một vài người tin rằng Thượng Đế không muốn con người được hạnh phúc. Người ta xem Ngài như người trên ban công thiên đàng tìm kiếm bất cứ ai có vẻ như đang tận hưởng cuộc đời thì truyền lệnh phải chấm dứt.

Một số người khác nghĩ về Thượng Đế như một người cha rất giàu tình cảm ở trên trời, vừa vuốt râu vừa nói: “Con cái bao giờ cũng là con cái!” Bất kể bạn đã làm gì đi nữa thì cuối cùng cũng chẳng sao. Thượng Đế đối với tất cả mọi người như nhau.

Nhiều người khác lại nghĩ về Ngài như một trái banh lửa khổng lồ và chúng ta như những tia lửa nhỏ dần dần cũng sẽ bị hút trở lại phía trái banh khổng lồ đó. Còn có những người, như Einstein, nghĩ Đức Chúa Trời như một sức mạnh hay trí lực vô ngã (impersonal mind).

Đối với các nhà duy thần (deist), Đức Chúa Trời tạo dựng nên thế giới nhưng chưa bao giờ xâm nhập vào nó. Ngài lên dây cót cho đồng hồ rồi để nó chết mà không lên dây lại.

Tuy nhiên, đối với những người hữu thần (theist), Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo và Đấng điều hành; Ngài có liên hệ cách cá nhân với công trình sáng tạo của Ngài trong khi bày tỏ chính Ngài.

Herbert Spencer, một trong những người truyền bá thuyết bất khả tri một thế kỷ trước đây, đã nhận xét rất chính xác rằng chẳng bao giờ có ai thấy một con chim bay ra được ngoài từng không gian. Do đó, ông dùng loại suy để kết luận rằng con người hữu hạn cũng không thế nào xâm nhập vào cõi vô hạn được. Ngay khi Đức Chúa Trời có hiện diện đi nữa thì chúng ta cũng không bao giờ biết Ngài một cách cá nhân hay biết bất cứ điều gì về sự hiện hữu của Ngài.

Spencer đã đúng khi quan sát loài chim không bao giờ bay ra khỏi không gian. Sự quan sát của ông đúng nhưng kết luận của ông bỏ sót một khả năng lựa chọn quan trọng: Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa vô hạn, có thể xâm nhập vào sự hữu hạn của chúng ta – Đấng vô hạn đã bước vào cõi hữu hạn, do đó việc liên hệ với chúng ta là điều Ngài rất thích làm. Dĩ nhiên, đây là điều Chúa đã làm.

Đc Chúa Tri đã bước vào cõi hu hn

Như tác giả sách Hê-bơ-rơ đã viết: “Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập nên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian” (HeDt 1:1-2).

Qua suốt lịch sử, Đức Chúa Trời đã chủ động trong việc tương giao với loài người. Sự mạc khải trọn vẹn nhất của Ngài là việc Ngài bước vào lịch sử nhân loại qua con người của Đức Chúa Giê-xu Christ. Ngay điểm này, về khía cạnh nhân cách của con người, chúng ta có thể hiểu được Ngài vì Ngài đã từng sống với chúng ta.

Nếu bạn muốn biểu lộ tình thương của bạn cho một bầy kiến thì làm sao bạn có thể làm điều đó một cách hữu hiệu nhất? Cách rõ ràng tốt nhất là bạn trở thành một con kiến. Chỉ với cách này sự hiện hữu và hình dáng của bạn mới có thể tương giao một cách đầy đủ và hữu hiệu. Đây chính là điều Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta để chúng ta có thể nhận biết Ngài một cách rõ ràng. J. B. Philips đã nói rất thích hợp: “Chúng ta là một hành tinh được viếng thăm.” Câu trả lời hay nhất và rõ ràng nhất để chúng ta biết tại sao có một Đức Chúa Trời, ấy là Ngài đã viếng thăm chúng ta. Những dấu hiệu khác chúng ta bàn đến chỉ là những đầu mối và gợi ý mà thôi. Điều xác nhận cách thuyết phục là sự giáng sinh, sự chết và phục sinh của Chúa Giê-xu Christ.

Nhng đi sng được thay đi

Những bằng chứng khác về sự hiện hữu hiển nhiên của Đức Chúa Trời là sự hiện hữu rõ ràng của Ngài trong cuộc sống của những người đàn ông và đàn bà ngày hôm nay. Nơi nào người ta chịu tin nhận và nhờ cậy Đức Chúa Giê-xu Christ, thì con người được biến cải sâu xa và cuối cùng cả cộng đồng xã hội ấy cũng được thay đổi. Một trong những ví dụ rất cảm động về sự kiện đó đã do Ernest Gordon, một tù binh trong chiến tranh sau trở nên giáo sĩ của trường đại học Princeton, kể lại. Trong cuốn sách Ngang Qua Thung Lũng Sông Kwai (Through the Valley of Kwai) ông đã thuật lại các tù binh trong thế chiến thứ hai bị người Nhật Bản giam tại Mã Lai hầu như bị biến thành thú vật như thế nào. Họ lấy cắp thức ăn của những người khác cũng đang chết đói như họ. Nhưng rồi trong cơn tuyệt vọng của mình, các tù nhân quyết định rằng đọc Tân Ước sẽ là điều tốt cho họ.

Vì Gordon đã tốt nghiệp đại học, nên họ nhờ ông hướng dẫn việc đó. Ông vốn là người theo chủ nghĩa hoài nghi, và những người yêu cầu ông hướng dẫn cũng là những người chưa tin Chúa. Nhờ nhận lời mời, ông và nhiều người khác đã tiếp nhận Đấng Christ, và làm quen với Ngài trong toàn thể vẻ đẹp và quyền năng của Ngài từ những lời lẽ rõ ràng đơn sơ của Tân Ước. Làm thế nào một nhóm người ăn cắp và cấu xé nhau như thế lại được biến đổi thành một cộng đồng đầy yêu thương là câu chuyên đầy cảm động và quyền năng, chứng tỏ rõ ràng sự thực hữu của Đức Chúa Trời qua Đức Chúa Giê-xu Christ. Nhiều người khác trong xã hội hiện nay, trong những điều kiện ít bi thảm hơn cũng đã kinh nghiệm những thực tế như vậy.

Do đó, cả trong công trình sáng tạo, lịch sử, và cuộc sống sinh hoạt hằng ngày đều chứng tỏ rằng có một Đức Chúa Trời, và người ta có thể căn cứ vào kinh nghiệm bản thân để biết được Ngài.

Đc thêm

Có Đức Chúa Trời Không?

Trong đời sống con người, không có một câu hỏi nào sâu sắc đòi hỏi một câu trả lời hơn là câu hỏi: Có Đức Chúa Trời không? Đây là một câu hỏi thách thức mỗi con người biết suy nghĩ, và câu trả lời liên hệ với mỗi chúng ta cho dù chúng ta đang ở đâu trong cuộc đời này.

Khi chúng tôi sống ở Dallas, một người quảng cáo cho quyển Những Tác Phẩm Lớn Của Thế Giới Phương Tây (Great Books of the Western World) thuyết phục chúng tôi mua trọn bộ 54 chương. Trong số 102 tư tưởng vĩ đại nhất, tôi bắt đầu với số 29, Đức Chúa Trời. Biên tập viên, Mortimer Adler, bắt đầu bằng lời giải thích: “Về phương diện tham khảo trọn vẹn, cũng như trong sự đa dạng, đây là chương sách dày nhất (của bộ giới thiệu đề tài tổng hợp). Lý do thật rõ ràng. Hậu quả của tư tưởng và hành động theo sau việc chấp nhận hay chối bỏ Đức Chúa Trời vốn được dành nhiều chỗ hơn là để giải đáp bất luận một câu hỏi căn bản nào khác.”

Adler tiếp tục liệt kê ra những ứng dụng thực tiễn: toàn bộ phương hướng của cuộc sống con người đều chịu ảnh hưởng của việc con người có tự xem mình như những hữu thể ưu việt trong vũ trụ hay nhận biết rằng có một hữu thể siêu việt hơn mà họ nhận thức đó là đối tượng của sự kính sợ hay yêu mến, một sức mạnh đang bị thách đố hay một Cứu Chúa phải thuận phục. Trong số những người chấp nhận có thần thánh, điều tối quan trọng là vị thần đó được hình dung như một ý niệm về Đức Chúa Trời đối tượng của suy lý triết học- hay là một Đức Chúa Trời hằng sống mà con người thờ phượng trong mọi hành động sùng kính bao gồm cả những nghi lễ tôn giáo.

Có Đc Chúa Tri trong ng nghim chăng?

Rõ ràng là chúng ta không thể xét nghiệm Đức Chúa Trời trong một ống nghiệm hay chứng minh về Ngài bằng phương pháp khoa học (scientific methodology) thông thường. Hơn nữa, chúng ta có thể nhấn mạnh tương tự rằng chúng ta cũng không thể chứng minh về Napoleon bằng những phương pháp khoa học được. Lý do nằm ở chính bản chất của lịch sử và trong sự giới hạn của những phương pháp khoa học. Muốn cho một việc gì có thể được chứng nghiệm bằng phương pháp khoa học, việc ấy phải được lặp đi lặp lại. Một nhà khoa học không tuyên bố cho cả thế giới biết về một khám phá mới chỉ dựa trên một thí nghiệm duy nhất mà thôi. Lịch sử trong chính bản chất của nó là không thể được lặp lại. Không ai có thể quay lại thời ban đầu của vũ trụ hay đem Napoleon sống lại hay lặp lại cuộc ám sát cố tổng thống Lincoln hay sự đóng đinh của Chúa Giê-xu. Việc các biến cố không thể được chứng minh bằng sự lặp lại không bác bỏ tính có thực của những biến cố đó.

Có rất nhiều sự thật nằm bên ngoài phạm vi của những phương pháp khoa học. Phương pháp khoa học chỉ hữu dụng với những vật thể có thể đo lường được mà thôi. Chưa có ai từng thấy một mét tình yêu hay hai ký lô công lý, nhưng nếu phủ nhận thực tại của chúng, thì người ấy phải là một tên điên. Cứ khăng khăng đòi phải chứng minh Đức Chúa Trời bằng phương pháp khoa học thì chẳng khác gì đòi dùng máy điện thoại để đo chất phóng xạ.

S vĩnh hng trong tm lòng ca chúng ta

Có bằng chứng hiển nhiên nào về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời không? Những nghiên cứu của những nhà nhân chủng học đã chỉ ra rằng có một niềm tin phổ quát nơi Đức Chúa Trời trong hầu hết những dân tộc sơ khai nhất ngày nay. Trong những chuyện huyền thoại và những chuyện lịch sử xa xưa của mọi dân tộc khắp trên thế giới đều có một ý niệm nguyên thủy về một Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Dường như cả trong ý thức của những dân tộc ngày nay theo chủ nghĩa đa thần đều đã ý thức về sự hiện hữu một Đức Chúa Trời tối cao nguyên thủy. Dù có những sự thêm thắt khác vào một vị chúa không biết này, nhưng ý niệm về một Đức Chúa Trời vẫn còn đó.

Những nghiên cứu trong năm mươi năm trở lại đây đã thách thức quan niệm tiến hóa về sự phát triển của tôn giáo. Thuyết độc thần – quan niệm rằng có một Đức Chúa Trời – trở nên đỉnh cao của sự phát triển tiệm tiến bắt đầu bằng những quan niệm về thuyết đa thần. Càng ngày chúng ta càng thấy rõ rằng tín ngưỡng truyền thống ở khắp mọi nơi là niềm tin vào một Thượng Đế tối cao. 2 Tác giả của sách Truyền Đạo nói về Đức Chúa Trời là Đấng “khiến cho sự đời đời ở nơi lòng loài người” (TrGv 3:11).

Blaise Pascal, nhà toán học lỗi lạc của thế kỷ 17, viết về “khoảng trống có hình dạng của Đức Chúa Trời” (the God-shaped vacuum) trong mỗi con người. Augustine kết luận rằng: “Lòng của chúng ta không bao giờ yên nghỉ cho tới khi tìm được yên nghỉ trong Ngài.”

Có nhiều bằng cớ chứng tỏ rằng đa số con người trong mọi thời đại và ở mọi nơi luôn tin vào một loại thần hay các thần nào đó. Mặc dù việc này theo nghĩa nào đi nữa không phải là một bằng chứng mang tính kết luận, nhưng đây là một điểm liên hệ mở đầu đáng ghi nhớ khi chúng ta cố gắng giải đáp câu hỏi lớn.

Lut Nhân Qu

Để bắt đầu, chúng ta hãy xem xét về luật nhân quả. Không có nguyên nhân thì không bao giờ có hậu quả. Có một giấy nhắn trên cửa của bạn. Phải có ai đó để nó ở đó. Bức họa ở trên tường, ai đó đã vẽ nó. Không có cái gì bắt nguồn từ cái không có! Chúng ta là những con người và bản thân cả vũ trụ này là kết quả cần có của một căn nguyên. Chúng ta tiến đến một nguyên nhân không hề có căn nguyên, đó là Đức Chúa Trời.

Betrand Russell, người theo chủ nghĩa hoài nghi, đã nói một câu đáng kinh ngạc trong quyển Tại Sao Tôi Không Phải Là Một Cơ Đốc Nhân (Why I am Not Christian). Ông nói rằng khi ông còn nhỏ “Đức Chúa Trời” là câu trả lời cho rất nhiều câu hỏi mà ông nêu lên để chất vấn về sự hiện hữu. Thất vọng quá, ông hỏi rằng: “Vậy thì ai tạo ra Đức Chúa Trời?” Khi không có câu trả lời nào thỏa mãn, ông nói rằng: “Toàn bộ đức tin của tôi bị sụp đổ.” Tiếc thay câu hỏi của ông là một kinh nghiệm rất thông thường nhưng nó lại không đáp ứng được câu hỏi đang bùng cháy.

Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Đầu Tiên, theo định nghĩa là đời đời. Không ai tạo ra Ngài hết. Ngài tự hiện hữu. Nếu Đức Chúa Trời cũng là một tạo vật được sáng tạo, Ngài không thể là căn nguyên được, Ngài cũng chỉ là kết quả mà thôi. Ngài sẽ không là và cũng không thể là Đức Chúa Trời được.

  1. C. Sproul, nhà văn và là một nhà diễn thuyết, giải thích rằng:

Là một Đấng đời đời, Đức Chúa Trời không phải là kết quả và vì Ngài không phải là kết quả, Ngài không đòi hỏi căn nguyên. Ngài không có căn nguyên. Điều quan trọng phải lưu ý phân biệt giữa một hữu thể không căn nguyên, tự hiện hữu đời đời với một kết quả tự tạo ra nó trong quá trình tự sáng tạo. 3

Thi gian vô đnh cng vi s ngu nhiên chăng?

Không ai lại có thể nghĩ rằng một máy vi tính có thể được hình thành mà không có một người vô cùng thông minh làm ra. Không thể nào một con khỉ được nuôi ở nhà in lại có thể sắp chữ rồi in bài diễn văn tại Gettysburg của Lincoln. Nếu chúng ta gặp một tập diễn văn như thế chắc chúng ta có thể kết luận rằng phải có một đầu óc vô cùng thông minh mới có thể in nó ra. Làm thế nào để chúng ta tin rằng cả vũ trụ này với tất cả sự phức tạp vô tận của nó có thể xảy ra bằng sự ngẫu nhiên?

Chẳng hạn, mọi người đều nhìn nhận rằng thân thể người ta là cơ thể vô cùng tuyệt diệu và phức tạp, một hệ thống tổ chức, một bản thiết kế và một hiệu quả mà ai cũng phải lấy làm ngạc nhiên. Cho nên chúng ta rất xúc động khi nghe lời tuyên bố sau đây của Albert Einstein: “Tôn giáo của tôi bao gồm việc hạ mình chiêm ngưỡng Đấng vốn là Thần Linh tối cao vô hạn đã tự bày tỏ chính Ngài trong những chi tiết nhỏ nhặt để chúng ta có thể hiểu được bằng tâm trí mong manh yếu ớt của mình. Niềm tin sâu xa do xúc động cho tôi biết về sự hiện diện của một năng lực tối thượng hữu lý, bộc lộ trong một vũ trụ không thể lấy lý trí lãnh hội được, đã tạo thành ý niệm của tôi về Đức Chúa Trời.” 4 Tuy vậy theo điều chúng ta biết, ông không bao giờ đạt đến việc tin nhận Đức Chúa Trời có thân vị.

Có hai sự lựa chọn mà Cơ Đốc nhân và những người chưa tin giống nhau là: Vũ trụ và toàn bộ con người khởi nguồn bởi sự tình cờ hay bởi mục đích và theo sự thiết kế?

Những nhà khoa học từ lâu đã dựa vào thời gian vô hạn cộng với sự ngẫu nhiên để giải thích về nguồn cội của cuộc sống. Từ quan niệm này họ tránh được những kết luận không thể chấp nhận được về một căn nguyên mang tính thần thánh. Tiến trình nầy đòi hỏi một sự giả định trước và những điều kiện nào đó, hoặc giả định rằng không có sự sống nào có thể sinh ra nó. Vì lý do nầy, muốn có sự việc xảy ra chắc chắn phải có:

Một món súp cơ bản được chuẩn bị một cách lý tưởng

Bình điện phải được xạc thường xuyên

Một khoảng thời gian vô hạn – hàng hàng niên kỷ

Phải có một công thức cuộc sống như thế thì có thể mới tiến hóa được. Tuy nhiên, những khó khăn mà lý thuyết này đưa ra quá lớn đến nỗi ngày nay những nhà khoa học đó đang thẳng thừng chỉ ra những nhược điểm của nó.

Phi hành gia lỗi lạc Sir Fred Hoyle đã đề xuất một bảng tương đồng để mô tả những khó khăn này. Ông hỏi: “Phải mất bao lâu một người bị bịt mắt mới giải được trò chơi quay khối rubic?” Nếu một người mỗi phút xoay chuyển một lần mà không ngừng nghỉ, Hoyle ước chừng rằng sẽ mất khoảng 3.5 nghìn tỉ năm! Do đó, ông kết luận rằng, khi xét tuổi thọ của một đời người thì một người bị bịt mắt không bao giờ có thể giải nổi trò chơi quay khối rubic.

Holye tiếp tục giải thích rằng khó khăn cũng xảy ra tương tự cho sự hình thành ngẫu nhiên của chỉ một cái trong số hàng chuỗi amino acid của một tế bào với khoảng 200.000 amino acid như vậy. Bây giờ nếu bạn tính toán thời gian cần thiết để tất cả 100.000 amino acid của một tế bào trong cơ thể con người liên kết lại với nhau bằng sự ngẫu nhiên, sẽ mất khoảng 293,5 lần số tuổi ước chừng của trái đất (lấy tiêu chuẩn 4,6 tỉ năm). Sự kỳ quặc cho phép việc này xảy ra còn lớn hơn việc một người bị bịt mắt giải được trò chơi Rubic.

Trong một bảng so sánh tương đồng khác Hoyle bênh vực sự tranh luận của mình. Ông ví nó với “kho chứa sắt, đồng vụn” (junkyard mentality) và hỏi: “Có sự ngẫu nhiên nào một cơn lốc xoáy thổi qua một kho đồng, sắt vụn, chứa các phần của chiếc 747 , ngẫu nhiên lắp chúng lại thành một chiếc máy bay sẵn sàng cất cánh?” Hoyle trả lời rằng: “Khả năng cho việc đó xảy ra quá nhỏ không đáng kể ngay cả khi cơn lốc xoáy đó có khả năng thổi qua đủ các kho đồng nát để lấp đầy cả vũ trụ này!”

Trong quyển sách rất ấn tượng của ông Vũ Trụ Tài Tình (The Intelligient Universe), Hoyle kết luận rằng: “Khi các nhà hóa sinh khám phá ra ngày càng nhiều sự phức tạp đáng kinh sợ của cuộc sống, họ nhìn nhận rõ ràng là sự sắp xếp tình cờ bởi ngẫu nhiên quá nhỏ đến nỗi có thể được loại bỏ hoàn toàn. Cuộc sống này không thể được nảy sinh từ sự ngẫu nhiên.” 5

Trt t và đ án ca vũ tr

Khi chúng ta nói đến kiểu mẫu, chống lại với ý kiến về sự ngẫu nhiên, chúng ta đang liên hệ với những phần có thể quan sát được của thế giới chúng ta, từ những cái nhỏ nhất của nơtron và prôton đến sự rộng lớn bao la của dải thiên hà. Ai hay cái gì đưa ra sự xác định hay những thông tin nguyên thủy để tất cả chúng có thể liên kết lại với nhau? Thông tin này là cái chúng ta muốn nói về đồ án. Tương tự khi so sánh với việc tìm kiếm một kế hoạch toàn hảo lấy thủy tinh, kim loại và phốt-pho để tạo nên những vật chất như cái ti -vi đầy chức năng. Không bao giờ có ai lại nghĩ tới việc đề xuất một sự “lựa chọn tự nhiên” như vậy hay một quá trình tự lắp ráp tạo ra một sản phẩm như vậy được. Thật sự thì ngay đến thuật ngữ “chọn lựa tự nhiên” cũng không phải là một lời giải thích, nó chỉ là một cái tên thôi. Nó không thể nào nói cho chúng ta biết làm thế nào những phần này đủ sự hiểu biết để tự hợp lại với nhau dẫn đến kết quả cuối cùng thật hữu ích. Phải có một người nào đó có đủ những thông tin để lắp ráp những phần đó vào ti-vi.

Cũng vậy, hệ thống vật chất của vũ trụ chúng ta cũng lớn tiếng tuyên bố rằng có một người nào đó đã lập trình những lời hướng dẫn vào từng phần riêng lẻ để sáng tạo nên thế giới mà chúng ta thấy. Tiến sĩ Robert Gangue gợi ý rằng chúng ta có thể nói rằng nó được thiết kế một cách có chủ đích. Nếu ai đó nói rằng cấu trúc cuộc sống có thể truy ra từ những tính chất vật chất của những phần tử nhân nhỏ nhất, thì có những câu hỏi cần được giải đáp:

Những phần tử này nảy sinh từ đâu?

Tại sao mà các hạt electron lại có điện tích và khối lượng như vậy?

Ai hay cái gì đã tạo ra giá trị của hằng số hấp dẫn?

Tại sao ánh sáng lại di chuyển với tốc độ chính xác của nó như vậy?

Từ vô số những ví dụ chúng ta có thể chứng tỏ về một sự thiết kế có chủ định trước. Xem xét những tính chất đáng chú ý của nước, Tiến Sĩ I. J. Henderson liệt kê một số những đặc tính mà chúng ta có thể ứng dụng vào sự chủ định trước.

Nước có nhiệt độ riêng cao. Điều đó có nghĩa là những phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể con người được giữ khá ổn định. Nếu nước có nhiệt độ riêng thấp, tất cả chúng ta sẽ bị “sôi lên” chỉ với một cử động nhỏ. Khi chúng ta nung một dung dịch lên thêm 10 độ bách phân, chúng ta đã làm tăng tốc độ của phản ứng lên gấp đôi. Nếu nước không có đặc tính đó thì khó mà có sự sống được.

Đại dương là máy điều nhiệt của thế giới. Nước phải mất khá nhiều nhiệt để có thể chuyển từ trạng thái lỏng sang nước đá, và khi nước biến thành hơi, nó đòi hỏi một lượng nhiệt thu vào cũng tương đương như vậy. Thế nên, đại dương là một “trái độn) (cushion) chống lại sức nóng của mặt trời và những luồng gió lạnh mùa đông. Nếu nhiệt độ của trái đất không được biển điều chỉnh và duy trì ở một phạm vi nhất định thì sự sống hoặc là bị nấu chín hoặc là bị đông lạnh đến chết.

Nước là chất dung môi tổng quát. Nó hòa tan các chất acid, các chất diêm cơ và chất muối. Về phương diện hóa học, nó tương đối thụ động, cung ứng một môi trường trung gian cho các phản ứng mà không dự phần vào. Trong sự tuần hoàn huyết, nó là một dung dịch chứa ít nhất là sáu mươi bốn chất khác nhau… Tất cả các dung môi khác chỉ là một thứ cáu cặn không hơn kém. Nếu như nước không có những đặc tính độc đáo ấy, sự sống mà chúng ta biết không thể nào hiện hữu được.

Bản thân trái đất cũng là một bằng chứng về một bảng thiết kế rất chi tiết. “Nếu trái đất nhỏ hơn, thì sẽ không có tầng khí quyển (như trên thủy tinh và mặt trăng); nhưng nếu nó lớn hơn, bầu khí quyển sẽ chứa đầy khí hidro ở dạng tự do (như trên thổ tinh và mộc tinh). Khoảng cách từ mặt đất đến mặt trời cũng rất chính xác – một thay đổi nhỏ xíu cũng làm cho trái đất quá nóng hay quá lạnh. Mặt trăng của chúng ta, có lẽ là hành tinh duy nhất chịu trách nhiệm về sự phân chia các châu lục và đại dương, là hành tinh rất đặc biệt trong thái dương hệ và dường như được ra đời theo một cách khác với các mặt trăng khác tương đối nhỏ hơn. Độ nghiêng của trục điạ cầu bảo đảm cho sự xoay chuyển bốn mùa.”

Những ví dụ đáng kinh ngạc tương tự như vậy có thể được nhìn thấy trong các sinh vật sống, bao gồm cả con người của chúng ta. Có khoảng gần mười một triệu sinh vật sống trên trái đất, và mỗi sinh vật là một phép lạ sống. Chúng là kết quả của một sự phức tạp có tổ chức đầy khác thường ở cấp độ phân tử mà chúng ta chỉ có thể chiêm ngưỡng trong kinh ngạc. Hãy xem xét đôi mắt của con người. Nhà thần học người Anh William Paley chỉ ra sự “phối hợp hiệu quả và hài hòa giữa thủy tinh thể, võng mạc và não bộ; cho phép con người nhìn thấy được; như là một bằng chứng mang tính kết luận cho sự thiết kế của một Đấng Sáng Tạo đầy khôn ngoan. Do đó, bản thiết kế đầy chức năng của các tế bào và những nét đặc trưng của nó được xem như những bằng chứng về sự hiện hữu của một Đấng Thiết Kế.” 9 Chính Darwin trong chương sách mang tực đề “Những điều vật lộn với lý thuyết” trong quyển Nguồn Gốc Của Các Loài (The Origins of Species) có nói: “Giả sử con mắt, với rất nhiều bộ phận làm việc chung với nhau… được cấu thành bởi một sự lựa chọn tự nhiên, tôi phải thú nhận rằng, nó có vẻ như là một điều vô lý vô cùng.”

Richard Lewontin, một sinh viên của Đại Học Harvard theo thuyết tiến hóa, nói rằng những tế bào được “thiết kế rất cẩn thận và khéo léo” và gọi sự toàn hảo của các tế bào là “bằng chứng chủ yếu nhất về một Đấng Thiết Kế Tối Cao.”

Vũ tr có s khi đu

Vũ trụ được thiết kế cũng hàm ý rằng vũ trụ đã có một khởi đầu – có một thời điểm mà thế giới được hình thành. Kinh Thánh mô tả theo cách này: “Thuở xưa Chúa lập nền trái đất, các từng trời là công việc của tay Chúa” (Thi Tv 102:25).

Các nhà khoa học cố tránh quan niệm cho rằng thời gian có khởi đầu hay kết thúc vì như vậy là nó có sự can thiệp của thần thánh. Trải qua nhiều năm có vô số học thuyết thay phiên nhau nảy nở.

Quan điểm thứ nhất cho rằng vũ trụ là một “quá trình sáng tạo liên tục/tình trạng vững bền” (continuos creation/steady-state) được đề xuất bởi Hermenn Bondi, Fred Hoyle và Tom Gold. Quan điểm này được Tiến Sĩ James Brooks mô tả: “Quan điểm này cho rằng khi các dải thiên hà di chuyển xa ra khỏi nhau, thì có những dải thiên hà mới được thành lập ở giữa những khoảng trống, theo kiểu được “liên tục sáng tạo”. Vũ trụ lúc đó sẽ gần như không thay đổi trong mọi thời điểm và mật độ của nó cũng sẽ khá đều đặn. Kiểu mẫu được đưa ra này cho thấy rằng vật chất (trong dạng của hidro) luôn luôn được tạo ra từ cái không có gì, và di chuyển xung quanh để trung hòa sự pha loãng của vật chất xuất hiện khi các dải ngân hà di chuyển cách xa nhau ra.” 11 Từ điều này và những yếu tố khác ông kết luận là vũ trụ không có sự bắt đầu và nó là vô tận.

Tiến sĩ Robert Jastrow, người sáng lập Viện Nghiên Cứu Không Gian của cơ quan NASA, giải thích điều ngược lại mới là đúng. Ngay giây phút một ngôi sao được sinh ra, nó bắt đầu đốt cháy một phần hidro trong vũ trụ, và có một sự pha loãng liên tục của hidro và những kim loại nạng hơn trong vũ trụ ngày hôm nay. Ông kết luận rằng học thuyết về một vũ trụ không có bắt đầu và kết thúc không thể đứng vững được.

Quan điểm thứ hai về sự bắt đầu của vũ trụ được các nhà khoa học đưa ra được gọi là “kiểu mẫu giao động” (oscillating model). Quan điểm này cho rằng vũ trụ giống như một cái lò xo, giãn ra và co lại, lặp lại chu trình một cách vô hạn định. Cơ sở của học thuyết này cho rằng vũ trụ đã “đóng”, nghĩa là, không có một năng lượng nào được đặt thêm vào. Sự giãn nở của vật chất sẽ đạt đến một điểm nhất định nào đó và trọng lực kéo mọi vật lại với nhau trước khi nó giãn nở nữa. Tuy nhiên, tất cả các bằng chứng đều bác bỏ điểm này; vũ trụ rõ ràng là mất tỷ trọng của nó mà không có một dấu hiệu nào nên sự giãn nở liên tục chưa bao giờ hay sẽ không bao giờ đảo ngược lại, cho nên cũng không đóng lại.

Tiến Sĩ William L. Craig đưa ra kết luận của ông về hai kiểu mẫu trên rằng: “Cả hai trạng thái vững bền và kiểu mẫu dao động của vũ trụ đều không trùng khớp với các sự kiện mà ngành vũ trụ học quan sát. Do đó chúng ta có thể kết luận một lần nữa rằng vũ trụ đã bắt đầu hiện hữu.”

Quan điểm thứ ba về sự khởi nguyên của vũ trụ được mọi người biết đến như là thuyết “Big Bang.” Tiến Sĩ Edwin Hubble vẽ biểu đồ tốc độ của dải thiên hà và khẳng định rằng tất cả các dải thiên hà đều di chuyển ra xa chúng ta và cách xa nhau ra với một tốc độ khủng khiếp. Định luật mang tên ông nói rằng: Các dải thiên hà càng cách xa nhau thì càng di chuyển nhanh hơn.

Sự ứng dụng gây sửng sốt của điều này là cùng một lúc tất cả các vật chất được gói trong một khối dày đặc ở nhiệt độ hàng tỉ độ. Những nhà khoa học quan sát hiện tượng này phát triển lý thuyết về vũ trụ nguyên thuỷ có lẽ giống như một trái banh lửa được nung lửa trắng ngay từ giây phút đầu tiên sau khi vụ nổ Big Bang xảy ra.

Lý thuyết nầy đã được xác nhận vào năm 1965 khi hai nhà vật lý học tìm ra một khám phá bất ngờ rằng toàn bộ trái đất đã tắm trong lớp sáng yếu ớt của phóng xa. Những bước sóng này theo y khuôn những mẫu của bước sóng trong vụ nổ lớn. Từ đó, những nhà khoa học một lần nữa xác nhận rằng không có một sự giải thích rõ ràng nào khác hơn là giải thích những bước sóng phóng xạ này là hậu quả của vụ nổ Big Bang.

Trước v n Big Bang

Tiến sĩ Robert Jastrow, là người theo thuyết bất khả tri về vấn đề tôn giáo, nhận xét về lý thuyết của vụ nổ Big Bang:

Bây giờ chúng ta thấy rằng những bằng chứng thiên văn học đều dẫn tới quan niệm của Kinh Thánh về nguồn gốc của thế giới. Chi tiết khác nhau, nhưng những yếu tố căn bản trong thiên văn học và Kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký thì giống nhau. Chuỗi sự kiện dẫn đến một sự khởi đầu thình lình và đột ngột vào một thời điểm nhất định trong thời gian, trong một chớp ánh sáng và năng lượng.

Một cách cổ điển, những nhà khoa học đã phủ nhận ý tưởng về một hiện tượng tự nhiên không thể giải thích được, thậm chí với thời gian và tiền bạc không giới hạn của họ. Có một loại tôn giáo trong khoa học, ấy là mỗi sự kiện có thể được giải thích theo cách hợp lý như là kết quả của một sự kiện trước đó; mỗi hậu quả phải có nguyên nhân của nó. Bây giờ khoa học chứng minh rằng vũ trụ đã nổ để tồn tại trong một thời điểm nhất định. Khi hỏi: “Nguyên nhân nào dẫn đến kết quả này? Ai hay cái gì đã đặt những vật chất và năng lượng vào trong vũ trụ?” thì khoa học không thể trả lời những câu hỏi này được.

Jastrow kết luận bằng câu nói bất hủ này:

Đối với nhà khoa học đã sống bằng niềm tin dựa vào sức mạnh của lý lẽ, thì câu chuyện kết thúc như một cơn ác mộng. Ông ta đã leo lên những ngọn núi của sự tự mãn; ông đang chuẩn bị chinh phục đỉnh cao nhất; ông bò qua tảng đá cuối cùng và thấy một nhóm các nhà thần học đã ngồi đó hàng bao thế kỷ đang chào đón mình. 14

Đối với nhiều người, đây là một sự phát triển đầy lạ lùng và đáng kinh ngạc ngoại trừ những nhà thần học. Họ đã luôn luôn chấp nhận những lời được chép trong Kinh Thánh. Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất.

Đa-vít, một trong những nhà thần học, nói cách khôn ngoan: “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giãi tỏ công việc tay Ngài làm” (19:1). Và sứ đồ Phao-lô viết: “Vì điều chi có thể biết được về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ đều đó cho họ rồi, bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (RoRm 1:19-20). Điều mà Augustine thêm vào là: “Ai có thể hiểu được sự huyền nhiệm này hay giải thích nó cho người khác được?”

Cuc tranh lun v đo đc

Nhưng vẫn còn một bằng chứng khác về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời mà C. S. Lewis gọi là “đúng và sai được xem như là bằng chứng về ý nghĩa của vũ trụ.” Có một ảnh hưởng hay mạng lịnh bên trong mỗi người chúng ta buộc chúng ta phải cư xử theo cách nhất định nào đó. Lewis giải thích rằng tự nhiên chúng ta thấy con người thường phản ứng về nhận thức đúng và sai. Người nọ cãi với người kia: “Đây là chỗ của tôi. Tôi chiếm được nó trước! Giả sử tôi hành động tương tự như bạn! Bạn có thích không? Thôi nào, bạn đã hứa rồi mà.” Những người có học lẫn không học vẫn nói với nhau như vậy hằng ngày, con nít và cả người lớn nữa.

Trong những cuộc tranh luận như vậy, có những yêu cầu đối với một số tiêu chuẩn cư xử mà người kia phải chấp nhận. Người có lý do chính đáng để làm việc đó; thì có thể làm việc đó. Người ta kêu gọi sự đáp ứng đối với một số luật pháp, luật lệ, công bằng hay đạo đức vốn đã có sẵn trong họ. Hiếm khi nào một người khác nói: “Ai thèm quan tâm đến tiêu chuẩn của bạn?” Tiêu chuẩn đó đã có giữa họ rồi. Họ không thắc mắc về nó nữa. Lewis nói: “Cãi lộn có nghĩa là cố gắng chỉ cho người kia thấy là họ đang sai.”

Luật pháp này liên hệ với cái phải xảy ra. Dù sao, chúng ta biết nó vẫn ở trong chúng ta. Nó không chỉ là một bộ quy tắc văn hóa hay tiêu chuẩn văn hóa. Nó còn là một sự nhất trí đáng ngạc nhiên từ nền văn minh này đến nền văn minh khác về cái gọi là khuôn phép đạo đức. Và tất cả chúng ta đều đồng ý rằng có một vài tiêu chuẩn đạo đức tốt hơn những tiêu chuẩn đạo đức khác. “Nếu không thì không ý tưởng đạo đức nào thật hơn hay đúng hơn cái khác, sẽ chẳng có nghĩa lý gì trong việc ưa chuộng đạo đức văn minh hơn là đạo đức sơ khai, hay đạo đức Cơ Đốc giáo hơn là đạo đức Đức quốc xã.” 15

Lewis nói rằng luật đạo đức không thể chỉ là một qui ước mang tính xã hội. Ông nói với chúng ta rằng nó phải hơn một bảng toán học. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ nói rằng bảng cửu chương là một qui ước xã hội để giúp chúng ta và chúng ta có thể làm một bảng khác nếu chúng ta muốn. 2 cộng 2 luôn luôn là 4 bất luận nền văn hóa của nó là gì đi nữa. Vì vậy, nếu có một bộ luật đạo đức, thì phải có một người đạo đức ban đạo luật đó. Kinh Thánh mô tả con người được “tạo dựng theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời,” phân biệt con người với tất cả các loài thọ tạo khác. Ảnh tượng đạo đức này có trong chúng ta từ khi mới sanh ra bất kể nguồn gốc hay quốc tịch của chúng ta là gì. Một người chưa bao giờ nghe con vật cưng (chó hay mèo) hỏi: “Điều này đúng hay sai?” hay là “Điều này tốt hay xấu?” Những ý tưởng như vậy chỉ có đặc biệt ở con người mà thôi, và đối với con người, ảnh tượng đạo đức không phải là một phần mềm tùy ý chọn lựa. Vâng, có một người đứng đằng sau toàn bộ vũ trụ. Người đó chính là Đức Chúa Trời, Đấng có trí óc, tình cảm, sự nhận thức, ý chí và một nhân cách trọn vẹn. Những điều này được ban cho chúng ta khi Ngài tạo dựng chúng ta, và điều đó bao gồm luôn luật pháp đạo đức. Ngài quan tâm đến một sản phẩm hoàn chỉnh – trong sự công chính, không ích kỷ, can đảm, đức tin tốt, lương thiện và trung thành.

Luật pháp của Đức Chúa Trời không phải là cái gì đó xa lạ, phủ lên bên ngoài chúng ta nhưng đan dệt vào bản chất chúng ta từ ngày sáng tạo. Có cái gì đó sâu thẳm bên trong chúng ta vang dội điều có hay không, đúng hay sai của Đức Chúa Trời. (Sứ điệp trong RoRm 2:15).

Phi chăng Thượng Đế không mun con người hnh phúc?

Có một điều quan trọng cần quan sát ở đây mặc dù có nhiều dấu hiệu của Đức Chúa Trời trong thiên nhiên, chúng ta cũng chẳng bao giờ có thể biết được một cách chắc chắn từ thiên nhiên rằng Ngài hiện hữu hay Ngài trông như thế nào. Câu hỏi được đặt ra từ hàng thế kỷ trước: “Há có thể hiểu biết được sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời, và thấu rõ Đấng Toàn Năng sao?”( Giop G 11:7). Câu trả lời là không! Nếu Đức Chúa Trời không bày tỏ chính Ngài, chúng ta cũng quờ quạng trong sự mập mờ và phỏng đoán mà thôi.

Rõ ràng ngày hôm nay trong vòng những người tin vào Đức Chúa Trời có rất nhiều ý tưởng xa lạ về Đức Chúa Trời.

Chẳng hạn như một vài người tin rằng Thượng Đế không muốn con người được hạnh phúc. Người ta xem Ngài như người trên ban công thiên đàng tìm kiếm bất cứ ai có vẻ như đang tận hưởng cuộc đời thì truyền lệnh phải chấm dứt.

Một số người khác nghĩ về Thượng Đế như một người cha rất giàu tình cảm ở trên trời, vừa vuốt râu vừa nói: “Con cái bao giờ cũng là con cái!” Bất kể bạn đã làm gì đi nữa thì cuối cùng cũng chẳng sao. Thượng Đế đối với tất cả mọi người như nhau.

Nhiều người khác lại nghĩ về Ngài như một trái banh lửa khổng lồ và chúng ta như những tia lửa nhỏ dần dần cũng sẽ bị hút trở lại phía trái banh khổng lồ đó. Còn có những người, như Einstein, nghĩ Đức Chúa Trời như một sức mạnh hay trí lực vô ngã (impersonal mind).

Đối với các nhà duy thần (deist), Đức Chúa Trời tạo dựng nên thế giới nhưng chưa bao giờ xâm nhập vào nó. Ngài lên dây cót cho đồng hồ rồi để nó chết mà không lên dây lại.

Tuy nhiên, đối với những người hữu thần (theist), Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo và Đấng điều hành; Ngài có liên hệ cách cá nhân với công trình sáng tạo của Ngài trong khi bày tỏ chính Ngài.

Herbert Spencer, một trong những người truyền bá thuyết bất khả tri một thế kỷ trước đây, đã nhận xét rất chính xác rằng chẳng bao giờ có ai thấy một con chim bay ra được ngoài từng không gian. Do đó, ông dùng loại suy để kết luận rằng con người hữu hạn cũng không thế nào xâm nhập vào cõi vô hạn được. Ngay khi Đức Chúa Trời có hiện diện đi nữa thì chúng ta cũng không bao giờ biết Ngài một cách cá nhân hay biết bất cứ điều gì về sự hiện hữu của Ngài.

Spencer đã đúng khi quan sát loài chim không bao giờ bay ra khỏi không gian. Sự quan sát của ông đúng nhưng kết luận của ông bỏ sót một khả năng lựa chọn quan trọng: Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa vô hạn, có thể xâm nhập vào sự hữu hạn của chúng ta – Đấng vô hạn đã bước vào cõi hữu hạn, do đó việc liên hệ với chúng ta là điều Ngài rất thích làm. Dĩ nhiên, đây là điều Chúa đã làm.

Đc Chúa Tri đã bước vào cõi hu hn

Như tác giả sách Hê-bơ-rơ đã viết: “Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập nên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian” (HeDt 1:1-2).

Qua suốt lịch sử, Đức Chúa Trời đã chủ động trong việc tương giao với loài người. Sự mạc khải trọn vẹn nhất của Ngài là việc Ngài bước vào lịch sử nhân loại qua con người của Đức Chúa Giê-xu Christ. Ngay điểm này, về khía cạnh nhân cách của con người, chúng ta có thể hiểu được Ngài vì Ngài đã từng sống với chúng ta.

Nếu bạn muốn biểu lộ tình thương của bạn cho một bầy kiến thì làm sao bạn có thể làm điều đó một cách hữu hiệu nhất? Cách rõ ràng tốt nhất là bạn trở thành một con kiến. Chỉ với cách này sự hiện hữu và hình dáng của bạn mới có thể tương giao một cách đầy đủ và hữu hiệu. Đây chính là điều Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta để chúng ta có thể nhận biết Ngài một cách rõ ràng. J. B. Philips đã nói rất thích hợp: “Chúng ta là một hành tinh được viếng thăm.” Câu trả lời hay nhất và rõ ràng nhất để chúng ta biết tại sao có một Đức Chúa Trời, ấy là Ngài đã viếng thăm chúng ta. Những dấu hiệu khác chúng ta bàn đến chỉ là những đầu mối và gợi ý mà thôi. Điều xác nhận cách thuyết phục là sự giáng sinh, sự chết và phục sinh của Chúa Giê-xu Christ.

Nhng đi sng được thay đi

Những bằng chứng khác về sự hiện hữu hiển nhiên của Đức Chúa Trời là sự hiện hữu rõ ràng của Ngài trong cuộc sống của những người đàn ông và đàn bà ngày hôm nay. Nơi nào người ta chịu tin nhận và nhờ cậy Đức Chúa Giê-xu Christ, thì con người được biến cải sâu xa và cuối cùng cả cộng đồng xã hội ấy cũng được thay đổi. Một trong những ví dụ rất cảm động về sự kiện đó đã do Ernest Gordon, một tù binh trong chiến tranh sau trở nên giáo sĩ của trường đại học Princeton, kể lại. Trong cuốn sách Ngang Qua Thung Lũng Sông Kwai (Through the Valley of Kwai) ông đã thuật lại các tù binh trong thế chiến thứ hai bị người Nhật Bản giam tại Mã Lai hầu như bị biến thành thú vật như thế nào. Họ lấy cắp thức ăn của những người khác cũng đang chết đói như họ. Nhưng rồi trong cơn tuyệt vọng của mình, các tù nhân quyết định rằng đọc Tân Ước sẽ là điều tốt cho họ.

Vì Gordon đã tốt nghiệp đại học, nên họ nhờ ông hướng dẫn việc đó. Ông vốn là người theo chủ nghĩa hoài nghi, và những người yêu cầu ông hướng dẫn cũng là những người chưa tin Chúa. Nhờ nhận lời mời, ông và nhiều người khác đã tiếp nhận Đấng Christ, và làm quen với Ngài trong toàn thể vẻ đẹp và quyền năng của Ngài từ những lời lẽ rõ ràng đơn sơ của Tân Ước. Làm thế nào một nhóm người ăn cắp và cấu xé nhau như thế lại được biến đổi thành một cộng đồng đầy yêu thương là câu chuyên đầy cảm động và quyền năng, chứng tỏ rõ ràng sự thực hữu của Đức Chúa Trời qua Đức Chúa Giê-xu Christ. Nhiều người khác trong xã hội hiện nay, trong những điều kiện ít bi thảm hơn cũng đã kinh nghiệm những thực tế như vậy.

Do đó, cả trong công trình sáng tạo, lịch sử, và cuộc sống sinh hoạt hằng ngày đều chứng tỏ rằng có một Đức Chúa Trời, và người ta có thể căn cứ vào kinh nghiệm bản thân để biết được Ngài.

Đc thêm

Lewis, C. S Mere Christianity. New York: Macmillan, 1986.

Packer, J. I Knowing God. Twentieth anniv. ed. Downers Grove, Ill.: InterVarsity Press, 1993.

Lewis, C. S Mere Christianity. New York: Macmillan, 1986.

Packer, J. I Knowing God. Twentieth anniv. ed. Downers Grove, Ill.: InterVarsity Press, 1993.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here